Khai quật Homo_rhodesiensis

Kabwe 1, còn gọi là Sọ Đồi Broken, được phân loại bởi Arthur Smith Woodward trong năm 1921 như là mẫu hình cho Homo rhodesiensis; ngày nay hầu hết các nhà khoa học gán nó với chủng Homo heidelbergensis. Hóa thạch sọ được tìm thấy trong mỏ chì và kẽm tại Đồi Broken, Bắc Rhodesia (nay thuộc Kabwe, Zambia) vào năm 1921 bởi Tom Zwiglaar, một thợ mỏ người Thụy Sĩ. Cùng với sọ, hàm trên của một cá nhân khác, xương cùng, xương chày, và hai mảnh xương đùi cũng đã được tìm thấy. Hộp sọ được mệnh danh là "Người đàn ông Rhodesia" tại thời điểm phát hiện, nhưng ngày nay thường được gọi là Sọ Đồi Broken hay hộp sọ Kabwe.

Liên kết giữa các xương không rõ ràng, nhưng hóa thạch xương chày và xương đùi lại thường có quan hệ với hộp sọ. Người đàn ông Rhodesia có niên đại giữa 125.000 và 300.000 năm. Kích thước Sọ Đồi Broken đã được ước tính khoảng 1.230 cm³. Bada, & al., (1974) công bố tuổi thọ của mẫu vật này là 110 ka  bằng cách đo độ axit. Việc tiêu hủy điểm khai quật đã khiến cho việc xác định niên đại trở nên bất khả thi.

Hộp sọ này là của một cá nhân rất khỏe mạnh, và có cặp lông mày rậm nhất so với các loài vượn người còn lại. Họ được mô tả là có khuôn mặt rộng như Homo neanderthalensis (tức là mũi lớn và gờ lông mày dày), và đã được coi là "chủng Neanderthal châu Phi". Tuy nhiên, khi liên quan đến độ chắc chắn của hộp sọ, nghiên cứu gần đây đã chỉ ra một số đặc điểm trung gian giữa Homo sapiens hiện đại và người Neanderthal. Một mẫu vật khác, "người vượn hồ Ndutu" có thể có niên đại 400.000 năm; năm 1976 được Clarke phân loại vào chủng Homo erectus. Dung tích sọ não được đo gián tiếp vào khoảng 1100 ml. Hình thái học về rãnh nhận thức và sự hiện diện của các khối u của họ được trình bày bởi Philip Rightmire "mang lại cho hậu chẩm một diện mạo khác hẳn so với Homo erectus", nhưng Stinger (1986) đã chỉ ra rằng trụ xương hông dày là điển hình cho Homo erectus.